Sáng nay, Cục Dân số, Bộ Y tế phối hợp với Tổ chức Di cư Quốc tế tại Việt Nam tổ chức Hội thảo "Di cư và Sức khỏe Người di cư nội địa".

Phát biểu tại Hội thảo, ông Lê Thanh Dũng - Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế, Thành viên Ban Chỉ đạo Quốc gia Dân số và Phát triển, dân số Việt Nam cho biết: Hiện dân số Việt Nam đang là 103 triệu người, trong đó dân số đô thị chiếm 38,13%.

Theo kết quả điều tra biến động dân số và kế hoạch hóa gia đình ngày 1/4/2022 của Tổng cục Thống kê, dòng di cư lớn nhất ở nước ta là từ thành thị đến thành thị chiếm tới 44,6% tổng số các dòng di cư trong cả nước.

Khu vực có tỷ suất xuất di cư cao nhất là Đồng bằng sông Cửu Long và Trung du, miền núi phía bắc. Khu vực thu hút người di cư nhiều nhất là Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng.

Các tỉnh có số người di cư nhiều nhất là: Lạng Sơn, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu. Các tỉnh, thành phố có tỷ suất nhập cư cao là: Bắc Ninh, Bình Dương, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Thừa Thiên - Huế, Long An.

Ông Lê Thanh Dũng - Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế, Thành viên Ban Chỉ đạo Quốc gia Dân số và Phát triển, dân số Việt Nam phát biểu tại Hội thảo

Di cư mang đến các cơ hội về giáo dục, việc làm, thu nhập, chuyển giao công nghệ, giao lưu văn hóa, thúc đẩy hợp tác giữa nơi đi và nơi đến. Di cư là sự tất yếu và là động lực của quá trình phát triển. Tuy nhiên, di cư cũng tạo ra những khó khăn, thách thức cho cả nơi đi và nơi đến; người di cư thuộc nhóm dân số dễ bị tổn thương và gặp khó khăn, thách thức trong việc tiếp cận dịch vụ xã hội, trong đó có các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.

Điều tra Di cư nội địa Quốc gia 2015 thông tin, có 33,1% số người di cư được hỏi cho biết họ đang khỏe, 60% số người di cư cho biết sức khỏe bình thường, 2/3 (tức là khoảng 70,2%) người di cư có thẻ bảo hiểm y tế, tuy nhiên chỉ có 70% trong số đó sử dụng dịch vụ y tế công. Phần lớn số người di cư (63%) tự chi trả cho những lần đi khám bệnh của mình.

Tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai của phụ nữ di cư (37,7%) thấp hơn so với người không di cư (58,6%). Tỷ lệ người di cư dùng rượu bia cao hơn người không di cư. Những thói quen này không chỉ hại cho sức khỏe mà còn không phù hợp với môi trường công việc.

Các nghiên cứu trong và ngoài nước đều cho thấy người di cư thuộc nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất. Họ phải đối mặt với nhiều vấn đề như hạn chế di chuyển, giảm lương, mất việc làm, các nguy cơ, sự chậm trễ và gián đoạn trong việc chăm sóc sức khỏe... Mặt khác, họ thường có lối sống không lành mạnh như uống rượu bia, hút thuốc lá, ăn đồ ăn không bảo đảm vệ sinh nên gặp nhiều vấn đề về sức khỏe; có khả năng cao bị mắc các bệnh truyền nhiễm (lây qua đường tình dục, lao…) và cả bệnh không lây nhiễm trong đó có bệnh tâm lý.

Vì vậy, tại Hội thảo, nhiều đại biểu đề xuất ý kiến cần có chính sách khuyến khích công tác khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe cho người di cư như là: Khám chữa bệnh bảo hiểm y tế ngoài giờ, đầu tư cơ sở vật chất cho phòng y tế của doanh nghiệp; đẩy mạnh truyền thông nâng cao nhận thức của người dân về lợi ích và sự cần thiết của BHYT, đặc biệt là người di cư; nâng cao nhận thức cho ngời di cư về tác hại của hút thuốc lá và sử dụng rượu bia…

“Sức khỏe người di cư là một vấn đề xuyên suốt, liên quan nhiều cấp, ngành, cần có hướng giải quyết một cách toàn diện, liên ngành với sự tham vấn các bên liên quan. Sức khỏe người di cư cũng chính là sức khỏe của doanh nghiệp và của nền kinh tế” - Ông Lê Thanh Dũng - Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế nhận định.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *